Thứ Sáu, tháng 8 30, 2013

Obama, Syria và Silly-A


Nguyễn-Xuân Nghĩa - Việt Báo Ngày 130830

Nghịch lý Obama, vũng lội Syria và Liên bang Nga cười cười

 * Mắc lỡm rồi em ơi! *


Trong có hai năm – Tháng Ba năm 2011 và Tháng Tám 2013 - Tổng thống Barack Obama hai lần phải quyết định sử dụng võ lực để can thiệp vào một nước Hồi giáo đang gặp nội chiến. Lần này, ông còn kẹt hơn nữa, can thiệp cũng dở mà không làm gì thì còn tệ hơn! Vì sao nên nỗi?


Lần trước là tại Libya, qua một nghị quyết của Liên hiệp quốc và sự tiếp tay của các nước Tây phương, với kết quả là lãnh tụ Muammar Ghaddafi bị hạ sát. Nhưng rồi Libya bị nội loạn với hậu quả là vụ Benghazi làm Chính quyền Obama bị mang tiếng là che giấu sự thật. Lần này là tại Syria, với những tranh chấp sắc tộc và mâu thuẫn quốc tế còn gai góc gấp trăm, sau hơn hai năm nội chiến khiến hơn trăm ngàn người bị tàn sát, có khi bằng võ khí hóa học.

Từ một Tổng thống đã cố hòa giải với các nước và với thế giới Hồi giáo, việc Hoa Kỳ lại phải dụng binh là một nghịch lý... dễ hiểu: Obama tự chiếu bí. Khi bom đạn lên tiếng tại Syria, có khi nước Mỹ lỡ làng vì sau 12 năm chinh chiến tại ba nơi và chưa rút chân ra thì đã tụt vào hố cũ.

Chúng ta hãy cùng nhìn lại sự thể.


***

Khi cuộc nội chiến Syria bùng nổ từ Tháng Ba năm 2011, Tổng thống Obama cố giữ thái độ thận trọng vì 1) Hoa Kỳ đang triệt thoái khỏi Iraq, và 2) ông quyết định đôn quân gấp ba vào Afghanistan để đạt một số thắng lợi chính trị nhờ thành quả quân sự cho việc triệt thoái được báo trước là vào cuối năm 2014. Vì vậy, với hồ sơ Syria, ông Obama chỉ có thể đề cao những giá trị tinh thần của nhân loại, như quyền tự do và dân chủ, để lên án việc chế độ độc tài của Tổng thống Bashar al Assad sử dụng bạo lực chống người dân.

Vào thời điểm ấy, không quên rằng mình đã từng kỳ vọng vào vai trò cải cách của al Assad khi còn là Nghị sĩ, Ngoại trưởng Hillary Clinton nói trước rằng Hoa Kỳ không can thiệp vào Syria vì Quốc hội Mỹ không đồng ý. Khổ nỗi, chế độ al Assad lại còn tàn ác hơn với dân biểu tình và số thương vong gia tăng vùn vụt. Vì vậy, Chính quyền Obama mới có lập trường cứng rắn hơn và huy động sự can thiệp của quốc tế về ngoại giao và kinh tế. Hoa Kỳ dẫn đầu qua hàng loạt quyết định cấm vận kể từ Tháng Bảy 2011. Nhưng với khả năng tiếp vận của Iran và Liên bang Nga cho Syria, đòn cấm vận không đạt kết quả.

Sau đó là một chuỗi sai lầm của Tổng thống Mỹ.

Sai lầm đầu tiên là qua Tháng Tám năm 2011, Obama công khai tuyên bố rằng al-Assad "phải ra đi". Tổng thống Hoa Kỳ chỉ nên nhân danh đạo đức con người mà kết án một chế độ hung đồ là đi ngược trào lưu hay lịch sử khi chà đạp nhân quyền và tàn sát thường dân.

Ông ta hay bà ta không thể nói rằng lãnh tụ nay hay Tổng thống kia của một xứ nào đó "phải ra đi". Nhân danh cái gì mà bảo như vậy? Lý do đơn giản là theo đúng giá trị tinh thần mà nước Mỹ đề cao, ra đi hay không là một quyết định của người dân xứ đó.

Cũng theo đúng giá trị tinh thần đó, nếu người dân bị đàn áp và không còn tiếng nói thì quốc tế phải lên tiếng. Quốc tế ở đây là Liên hiệp quốc, qua một Nghị quyết của Hội đồng Bảo an với năm hội viên thường trực và có quyền phủ quyết là Anh, Pháp, Mỹ, Nga và Tầu. Vì Nga và Trung Quốc có lập trường bênh vực chế độ al Assad – và còn muốn Hoa Kỳ thêm sa lầy trong thế giới Hồi giáo - Liên hiệp quốc không thể có một nghị quyết lên án.

Trong trường hợp đó, Hoa Kỳ có thể nhân danh đạo lý con người mà giúp cho tiếng nói người dân Syria được thể hiện, khiến al Assad phải ra đi.

Nói cách khác, ngày 18 Tháng Tám năm 2011, khi công khai tuyên bố rằng al Assad phải từ chức, ông Obama hàm ý là thế giới (Liên hiệp quốc)  hay/và Hoa Kỳ phải có thái độ. Thực tế, hôm đó ông còn chìm sâu hơn trong vòng luẩn quẩn của tay mơ, khi tuyên bố nước đôi: 1) Hoa Kỳ không can thiệp vào nội tình Syria, 2) ngoài các áp lực chính trị và kinh tế. Vì các áp lực này đều vô hiệu, lời hăm dọa của Tổng thống Mỹ chỉ chứng tỏ khả năng giới hạn của Hoa Kỳ.

Xin nhớ lại: Tổng thống một đệ nhất siêu cường tuyên bố rằng Tổng thống một xứ độc tài phải ra đi mà hai năm sau, al Assad vẫn còn ở đó và tàn sát thường dân dữ dội hơn. Obama làm cho lời tuyên bố của mình là vô giá trị và Syria, Nga cùng Iran đều biết vậy. 

Quả nhiên là tới đầu năm 2012, nội tình Syra còn tồi tệ hơn, mà các cuộc vận động ngoại giao của Hoa Kỳ và đồng minh Âu Châu đều thất bại. Một nghị quyết do nước Anh soạn thảo bị Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc bác bỏ vào ngày 24 Tháng Hai vì lá phiếu phủ quyết của hai hội viên Nga Tầu.


***


Sáu tháng sau, ông Obama lại tự chiếu bí lần thứ hai.

Nhờ Iran hỗ trợ và nhờ sự bảo vệ của Nga và Trung Quốc, chế độ al Assad ra tay đàn áp các nhóm võ trang đối lập lẫn thường dân. Tháng Tám năm 2011, Tổng thống Obama vẽ ra một vòng vây hãm thứ hai cho chính mình, khi khẳng định rằng việc Chính quyền Syria sử dụng võ khí tàn sát bằng hoá học là vượt "lằn ranh đỏ".

Theo ý Obama, lý do của lằn ranh bất khả xâm phạm này là vì nó gây hậu quả nghiêm trọng và mở rộng tình trạng xung đột ra toàn khu vực.

Sau khi nói là al Assad phải ra đi – mà cứ còn ở đó và còn hung bạo hơn - Tổng thống Mỹ vạch ra một tối hậu thư thứ nhì, trên cát. Dù vậy, chế độ al Assad vẫn sử dụng võ khí hóa học chống lại thường dân, như tình báo của Anh và Pháp đã xác nhận, mà Hoa Kỳ cố gắng điều tra nhưng chưa có kết quả nên đành làm lơ....

Một năm sau, vào tuần qua, Hoa Kỳ xác nhận là chế độ al-Assad lại vừa dùng võ khí hóa học lần nữa. Đấy là lúc ông Obama tự đẩy vào chỗ phải quyết định can thiệp vào Syria, bằng giải pháp quân sự.

Vì vậy, từ thấp lên cao, từ phát ngôn viên Phủ Tổng thống đến Ngoại trưởng rồi Phó Tổng thống Hoa Kỳ đã theo nhau lên tiếng về nhu cầu can thiệp vào Syria. Ngày Thứ Hai đầu tuần, Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ là Đại tướng Martin Dempsey có phiên họp khẩn cấp tại thủ đô Amman của Jordan với lãnh đạo quân sự của các đồng minh là Anh, Pháp, Đức, Ý, Gia Nã Đại và Turkey, Jordan, Saudi Arabia và Qatar. Nhưng trước đấy, chính ông Dempsey cũng nói rõ về những khó khăn của một giải pháp quân sự....

Bây giờ, lãnh đạo bộ Quốc phòng và quân lực Mỹ đều tự chuẩn bị để khi Tổng thống ra lệnh là họ thi hành nhiệm vụ.

Nhưng vì sao Tổng thống lại để mình rơi vào hoàn cảnh phải ra lệnh như vậy?


***

Đa số dân Mỹ thật ra chưa hiểu, hoặc không đồng ý, là tại sao Hoa Kỳ lại phải can thiệp vào Syria? Trong hơn hai năm liền, ông Obama không một lần nào chủ động trình bày hồ sơ Syria cho quốc dân cùng rõ về hậu quả, để tranh thủ hậu thuẫn cho một quyết định dụng binh khi cần thiết. Ông chỉ bắn tiếng hăm dọa đối phương mà quên hẳn dư luận ở nhà.

Khi đã phải quyết định can thiệp, ban tham mưu của ông còn cố tình tiết lộ chi tiết, và cả thời điểm tấn công là ngày Thứ Năm 29, có lẽ để lại bắn tiếng trong một đòn tháu cáy. Truyền thông Hoa Kỳ và cả Việt ngữ lật đật chụp lấy tin đó, và bị bẽ bàng. Bẽ bàng vì sau khi ra tối hậu thư, ông Obama vẫn không nói gì với quốc dân và quốc hội ở nhà, trong khi Thủ tướng Anh David Cameron xin phép Quốc hội Anh và bị bác.

Tại Hoa Kỳ, Quốc hội Mỹ không quên chuyện đảo điên thời trước.

Sau vụ 9-11, Tổng thống George W. Bush có hậu thuẫn toàn dân để mở ra chiến dịch Afghanistan rồi Iraq. Việc tấn công Iraq được sự ủng hộ của lưỡng viện và lưỡng đảng sau 17 nghị quyết của Liên hiệp quốc mà rốt cuộc lại gây tổn thất chính trị nặng nhất cho Chính quyền Bush. Kể cả lời vu cáo rằng ông Bush gian dối với Quốc hội về chuyện võ khí tàn sát. Bây giờ, Liên hiệp quốc cũng lại yêu cầu phải điều tra rõ ràng hơn về vụ võ khí hóa học tại Syria, và dù có xác nhận thì vẫn còn hai con kỳ đà cản mũi trong Hội đồng Bảo an.

Cái nghiệp Bush đang tái diễn với Obama. Tổng thống Mỹ đã để cho mình bị áp lực phải tham chiến vì ba bốn lý do sau đây.

Obama từng kêu gọi quốc tế giảm trừ võ trang và kiểm soát việc phổ biến võ khí tàn sát hàng loạt, trong đó có võ khí hoá học. Nhưng thế giới có hai chế độ hung đồ lại bất chấp lời kêu gọi mà cứ chế tạo võ khí hạch tâm, hỏa tiễn và còn phổ biến võ khí giết người hàng loạt cho các nước độc tài, kể cả Syria. Đó là Bắc Hàn và Iran.

Khi vạch lằn ranh đỏ cho chế độ độc tài Syria, ông Obama tự đẩy mình vào kho đạn: nếu al Assad bước qua lằn ranh mà Hoa Kỳ lại án binh bất động thì Bắc Hàn và Iran sẽ kết luận rằng Tổng thống Mỹ chỉ tháu cáy, chứ không dám động binh. Muốn chứng minh ngược thì Obama phải bấm nút!

Lý do kia là chế độ al Assad còn tồn tại là nhờ Iran, Nga và Tầu. Hai năm sau khi Obama tuyên bố rằng al Assad phải ra đi mà lãnh tụ hung bạo này vẫn còn đó thì hai đối thủ kia kết luận rằng Tổng thống Mỹ là người không đáng sợ. Các chế độ chống Mỹ đều có thể kết luận như vậy nên Hoa Kỳ phải can thiệp để chứng minh ngược lại.

Lý do thứ ba là các nước đồng minh Hồi giáo của Hoa Kỳ cũng yêu cầu Obama có lập trường cứng rắn hơn với Syria và Iran. Sau khi Mỹ bỏ rơi Hosni Mubarak tại Ai Cập và chần chờ tại Syria, các nước Hồi giáo thân Mỹ bị các chế độ quá khích đe dọa. Trong khi ấy, Iran có thể phong tỏa Eo biển Hormuz, Syria và lực lượng Huynh đệ Hồi giáo có thể xúi giục lực hai nhóm khủng bố Hezbollah và Hamas gây rối loạn trong vùng. Và khi có chuyện, Israel có thể bị Syria đánh phủ đầu để tự vệ.....

Nghĩa là nếu Tổng thống Mỹ không có phản ứng thì đồng minh sẽ hết tin Hoa Kỳ, các lực lượng Hồi giáo cực đoan và cả phong trào khủng bố lại thừa cơ bành trướng trong toàn khu vực, từ Bắc Phi qua Tây Phi và Trung Đông.

Lý do cuối cùng, sau khi đòi al Assad phải từ chức và hai lần vẽ lằn ranh đỏ, Tổng thống Mỹ bị đẩy tới chỗ phải can thiệp vào Syria vì một lý do thuộc loại chiến lược cho quyền lợi Hoa Kỳ: Nếu không can thiệp thì Hoa Kỳ mất hết tư thế trong thế giới Hồi giáo, đồng minh chẳng tin mà kẻ thù chẳng sợ. Bây giờ, Obama phải chứng minh với Quốc hội và quốc dân rằng việc can thiệp này là một yêu cầu về "quyền lợi chiến lược của tổ quốc".

Còn quân lực Hoa Kỳ phải hoàn tất nhiệm vụ thật ra nan giải. Với hậu quả chẳng có gì là bất ngờ là trôi vào một vũng lầy khác....


***


Tổng kết lại, sau khi tránh né việc dụng binh, Hoa Kỳ đang gặp trở ngại quốc tế, từ Liên hiệp quốc đến các đồng minh Anh Pháp, nên có thể phải ra quân một mình. Nước Mỹ thừa sức làm chuyện đó, một cách tượng trưng. Nhưng khi can thiệp một cách miễn cưỡng và chớp nhoáng như vậy thì không thể làm thay đổi cục diện tại Syria. Mà chỉ chứng minh rằng thế giới vẫn nên sợ Hoa Kỳ, nhưng nên thương một ông Tổng thống lạng quạng. Và thương nhất là các chiến binh Mỹ, họ đang chờ lệnh để thi hành một sứ mệnh thiếu hậu thuẫn của người dân.

Đừng ai nhìn vào cái vẻ cười cười của Tổng thống Vladimir Putin của Liên bang Nga. Đau lắm!

Thứ Tư, tháng 8 28, 2013

Khi Tư Bản Tài Chính Rút Chạy

Vũ Hoàng & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA Ngày 130828 
"Diễn Đàn Kinh Tế"
 
Dòng tiền chảy ngược, ai được ai thua? 
000_Par7619796-305.jpg
* Bộ trưởng Tài chính Nga Anton Siluanov đi ngang hàng cờ của các nước tham dự Hội nghị Bộ trưởng G20 tại Moscow vào ngày 20/7/2013 - AFP photo* 
 
 


Năm năm trước, khi Hoa Kỳ và Âu Châu bị khủng hoảng tài chính, toàn cầu bị Tổng suy trầm, các biện pháp cấp cứu khiến lãi suất và đồng tiền Âu Mỹ mất giá. Khi ấy, dòng tư bản chảy về nơi có lợi hơn, đó là các nước đang phát triển. Ngày nay, tình hình lại đảo ngược khi kinh tế các nước đang phát triển đều có dấu hiệu suy giảm và khối công nghiệp hóa Âu-Mỹ-Nhật lại hồi phục khiến tư bản tài chính rút khỏi các thị trường đang lên và gây ra nhiều chấn động quốc tế. Chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa sẽ phân tích hậu quả của sự chuyển động ngược này trong chương trình chuyên đề của Diễn đàn Kinh tế.


Đổi hướng đầu tư...


Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, cuối Tháng Bảy vừa qua, tiết mục chuyên đề của chúng ta đã giải thích vì sao mà các nền kinh tế "đang lên" sẽ lại xuống. Kỳ này, vào cuối Tháng Tám, ta sẽ tìm hiểu tiếp về hậu quả gần xa của sự đảo chiều này vì cùng lúc đó, dấu hiệu phục hồi tại Hoa Kỳ khiến ngân hàng trung ương Mỹ nêu ý kiến là sẽ giảm dần mức độ bơm tiền kích thích kinh tế làm lãi suất dài hạn và phân lời trái phiếu tại Mỹ tăng vọt. Chủ trương đó của Hoa Kỳ làm nhiều đồng bạc trên thế giới mất giá và còn gây bối rối cho lãnh đạo Trung Quốc qua một chi tiết nhỏ mà có thể phản ảnh một sự lúng túng rất lớn. Đó là hôm Thứ Ba 27, lãnh đạo tài chính và ngân hàng Bắc Kinh yêu cầu ngân hàng trung ương Mỹ xem xét kỹ thời điểm và cường độ thu hút lại lượng tiền bơm vào kinh tế để khỏi gây thiệt hại cho các nền kinh tế đang phát triển. Nói cách khác, vì sao một quyết định của Mỹ lại làm Bắc Kinh giật mình như vậy?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa rằng nhìn trong toàn cảnh của một địa cầu hình tròn và luồng giao dịch liên tục của hàng hóa và tư bản giữa các nước thì những xoay chuyển hay thăng giáng trị giá tài sản là điều thường xuyên và tất nhiên. Vì thế, khi thấy có lợi trong nhất thời vì tài sản của xứ khác trút vào thị trường của mình để kiếm lời thì cũng nên chuẩn bị cái ngày mà dòng tài sản ấy sẽ chảy đi nơi khác và để lại nhiều hậu quả bất lợi. Đó là một nguyên tắc chung.

- Về phản ứng của Bắc Kinh, thì Thứ trưởng Tài chính Chu Quang Diệu và Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Dịch Cương của Trung Quốc đã sợ nạn rút vốn về Mỹ sau khi Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ nói đến việc "vuốt nhọn" chính sách tiền tệ, là giảm dần và có thể hút lại lượng tiền đã bơm ra. Khi kinh tế Mỹ hồi phục và có nền móng vững chắc hơn, việc điều chỉnh chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ quả nhiên là gây hậu quả toàn cầu nên mới làm Trung Quốc và nhiều xứ khác hốt hoảng. Qua câu chuyện này, ta thấy ra vài điều đáng chú ý và chẳng nên quên.

Khi kinh tế Mỹ hồi phục và có nền móng vững chắc hơn, việc điều chỉnh chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ quả nhiên là gây hậu quả toàn cầu nên mới làm Trung Quốc và nhiều xứ khác hốt hoảng.
- Nguyễn-Xuân Nghĩa
Vũ Hoàng: Thưa ông, những điều ấy là gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trong nhiều năm liền, khi khối công nghiệp hóa bị suy trầm và bơm tiền kích thích làm đồng bạc mất giá, các nước kết án là họ gây chiến tranh ngoại hối và cạnh tranh nhờ tiền rẻ làm hàng hóa dễ bán hơn. Khi kinh tế đã khá hơn và Hoa Kỳ cần điều chỉnh thì lại bị phê phán là làm đồng tiền xứ khác mất giá và được yêu cầu là phải suy xét thận trọng. Đâm ra, ngược với quan điểm của nhiều người trong năm năm liền, Hoa Kỳ vẫn là siêu cường kinh tế chứ không hề lụn bại để Trung Quốc sẽ qua mặt trong dăm ba năm. Điều phũ phàng ấy có nghĩa là thủ đô Washington, chứ không phải Bắc Kinh hay một nơi nào khác, vẫn là trung tâm mà các quyết định về tài chính và ngân hàng tất nhiên gây hậu quả cả tốt lẫn xấu cho xứ khác.

Vũ Hoàng: Nói về hậu quả, chúng ta có thể liên tưởng đến một tiền lệ vào năm 1997, khi luồng tư bản như thủy triều rút khỏi Đông Á khiến nhiều quốc gia bị khủng hoảng. Thưa ông, có thể nào mà lần này chúng ta lại thấy tái diễn chuyện ấy không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ tương lai không nhất thiết là lịch sử tái diễn, nhưng trào lưu thăng giáng kinh tế thì vẫn vận hành theo một quy luật chung và cho ta nhiều bài học có ý nghĩa. Chúng ta hãy nhắc lại chuyện đó, so sánh với chuyện nay, may ra thì thấy được vài bài học. Thứ nhất, vụ khủng hoảng 1997 xuất phát từ sự hồ hởi sảng của nhiều nước Á Châu.

- Khi ấy, cả thế giới nói đến phép lạ kinh tế của tám nước gọi là "tân hưng" của Đông Á. Năm tháng trước khi khủng hoảng bùng nổ, vào đầu năm 1997, báo chí, các định chế tài chính hay học giả quốc tế còn ngợi ca các nước này. Số là sau khi Liên Xô tan rã và Chiến tranh lạnh kết thúc năm 1991, luồng tư bản tài chính thật sự được giải phóng đã lưu thông tự do hơn. Sự lạc quan chung đi cùng nỗ lực chuyển theo quy luật thị trường của Trung Quốc rồi Ấn Độ, khiến các nước Đông Á đi trước đã có một lượng tư bản dồi dào để đạt mức tăng trưởng cao.

- Khi ấy rồi, người ta đánh giá sai ảnh hưởng của Hoa Kỳ khi Ngân hàng Trung ương Mỹ bắt đầu nâng lãi suất từ năm 1994. Trong một năm, lãi suất Mỹ đã tăng gấp đôi khiến Mỹ kim lên giá mạnh từ năm 1995. Nhiều quốc gia đã giàng giá đồng bạc vào tiền Mỹ như một cái neo thì bị đứt neo và phải phá giá để tự cứu nguy. Vụ khủng hoảng 1997 mở ra từ đó.


... xứ khác bị ảnh hưởng

035_pau688187_01-250.jpg
Một nhà đầu tư Trung Quốc nhìn vào giá cổ phiếu (màu đỏ cho giá tăng và màu xanh lá cây cho giá giảm) tại một nhà môi giới chứng khoán tại Thiên Tân, Trung Quốc hôm 09/8/2012. AFP photo
 
 
Vũ Hoàng: Ông nhắc lại chuyện cũ nên thính giả của chúng ta có thể rút tỉa được bài học cho chuyện mới. Đó là khi kinh tế phát đạt nhờ tư bản xứ khác trút vào xứ mình, các nước tân hưng Đông Á nghĩ là họ tạo ra phép lạ vì lãnh đạo của họ cả tin vào sự tường thuật của báo chí. Cũng vậy, năm 2008, vì lãi suất quá thấp tại Hoa Kỳ, tư bản Âu Mỹ mới trút vào các nước tân hưng để kiếm lời cao hơn, dư luận liền ngợi ca các nền kinh tế đang lên, điển hình là nhóm BRIC của bốn nước Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc, và nói đến ngày tàn của khối công nghiệp hoá. Kết cuộc thì các nền kinh tế gọi là "đang lên" đã lại xuống và bây giờ thì họ sợ lãi suất sẽ tăng tại Hoa Kỳ khiến tư bản triệt thoái làm hối suất đồng bạc của nhiều nước đều sụt mạnh. Thưa ông, kết luận cần rút tỉa ở đây là những gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa:-  Trong tình trạng đảo chiều này, chúng ta thấy ra vài sự thật.

- Thứ nhất, lời phát biểu hay biên bản buổi họp kỳ trước của Ủy ban Tiền tệ và Tín dụng của Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ có thể gây biến động trên các thị trường tài chính toàn cầu. Vì vậy, mình nên theo dõi tin tức và cả những tranh luận rất xa vời về chính sách, ngân sách hay nhân sự tại Mỹ. Thứ hai, khi biến động xảy ra trên thị trường chứng phiếu và ngoại hối, xứ nào mà có sẵn nhược điểm bên trong thì bị tai họa nặng nhất. Nhược điểm ấy là bội chi ngân sách, lạm phát, nhập siêu quá cao nên cán cân thanh toán bị hụt, dự trữ ngoại tệ bị hao mòn, ngân hàng mắc nợ xấu, v.v...

- Khi kinh tế thịnh đạt thì lãnh đạo xứ nào cũng nghĩ rằng đấy là công lao thành tích của họ. Tới khi thủy triều của tư bản tài chính lại bắt đầu rút thì hối suất đồng bạc bị sụt, là trường hợp của Ấn Độ, Brazil, Indonesia, Turkey và nhiều xứ khác. Xứ nào có sẵn nhược điểm nội tại, do mình tự gây ra mà không thấy, thì rất khó ứng phó với biến động này. Thí dụ như họ khó phá giá đồng bạc, nâng lãi suất, tăng chi và đắp vốn cho ngân hàng vì biện pháp nào cũng có thể là liều thuốc để bệnh. Nhược điểm nặng nhất là luật lệ mờ ám và lãnh đạo tham ô thì gây hậu quả tai hại nhất, là các đại gia sẽ tẩu tán tài sản để tránh bị thiệt hại bên trong và để kiếm lời ở bên ngoài!

Vũ Hoàng: Thưa ông, so với lần trước thì lần này tình hình có khác gì không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - So với lần lạc quan hồ hởi 20 năm trước rồi bị khủng hoảng 16 năm trước, tôi nghĩ rằng có nhiều khác biệt cả xấu lẫn tốt.

- Lần trước, Đông Á bị khủng hoảng khi giá dầu thô còn ở mức 28 đến 35 đô la một thùng và chi phí năng lượng chưa là gánh nặng quá lớn của cán cân mậu dịch. Lần này, dầu thô đã vượt trăm đồng, chưa kể biến động sắp tới tại Trung Đông, nên các nước phải nhập xăng dầu sẽ bị khốn đốn hơn với cán cân mậu dịch và vãng lai.

Lần trước, Trung Quốc và Việt Nam chỉ bị gián tiếp vì chưa vào Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, lần này, họ bị trực tiếp vì buôn bán giao dịch với bên ngoài nhiều hơn. Nguyễn-Xuân Nghĩa

- Lần trước, Trung Quốc và Việt Nam chỉ bị gián tiếp vì chưa vào Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, lần này, họ bị trực tiếp vì buôn bán giao dịch với bên ngoài nhiều hơn. Chưa kể là Trung Quốc đang thoái trào và có quá nhiều nhược điểm bên trong. Nhưng ngược lại, lần này khu vực Đông Á lại có Nhật Bản với khả năng can thiệp khá hơn và có phương tiện tài chính phần nào bù đắp vào phần rút vốn của Hoa Kỳ. Nói chung thì sóng gió mới cũng tạo ra cơ hội mới nếu mình nhìn ra viễn ảnh lâu dài. Và lần này, cơ hội là nhân khi Trung Quốc lao đao và thiên hạ điêu đứng thì nhiều nước có thể vượt lên rất mạnh.

Vũ Hoàng: Chúng ta đi qua viễn ảnh dài của sự chuyển động này. Thưa ông, các nước đang phát triển mà bị điêu đứng như ngày nay thì có thể làm gì để hy vọng vượt lên như ông vừa nói?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ việc đầu tiên là tránh đổ lỗi cho thiên hạ hay cho thị trường!

- Lần trước, khi khủng hoảng Đông Á xảy ra năm 1997, một số quốc gia lâm nạn bèn rút tỉa bài học và cố không tái diễn sai lầm đã dẫn tới khủng hoảng. Trong số này có Nam Hàn là xuất sắc hơn cả sau khi mang cái nhục là phải nhờ Quỹ Tiền tệ Quốc tế tung tiền cấp cứu. Nhiều xứ khác có học bài mà lại chóng quên và lạc quan tếu nên ngày nay cũng gặp khó khăn, như Thái Lan, Indonesia hay Malaysia và Phillipines. Nhưng dù sao họ chưa nguy như Brazil, Turkey hay Ấn Độ là một xứ đã cải tổ mà sau lại trì hoãn và bị lạm phát lẫn tham ô lan rộng nên khó thoát hiểm.

- Xuất phát từ kinh nghiệm đó, điều thứ hai nên nhớ lần này là các nước tân hưng chưa thể tự túc phát triển mà vẫn tùy vào thị trường Âu-Mỹ nên sẽ bị khá nhiều khó khăn trong năm năm tới. Nhưng đây chính là cơ hội tiến hành cải cách. Trong ngắn hạn là một hai năm thì phải vừa chống đỡ sóng gió bên ngoài, vừa rà soát lại những yếu kém bên trong để cải tổ cơ chế. Khi cải tổ thì đừng quên kỷ luật của chi tiêu và nếu có tiếp nhận đầu tư thì để phát triển qua các dự án có giá trị kinh doanh và kinh tế, chứ không để trám vào thiếu hụt ngoại tệ của mình.

Vũ Hoàng: Từ những bài học đó, thưa ông, chúng ta có thể kết luận những gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Để kết luận, tôi nghĩ rằng bài học quan trọng nhất của ngần ấy biến động là kinh tế có thể tăng trưởng nhưng cũng dễ gây ra thất quân bình nên mới phải điều chỉnh. Tiến trình điều chỉnh ấy là hiện tượng bình thường và liên tục. Nếu tư bản ào ạt đổ vào nước ta thì nên nghĩ đến ngày có thể rút, để khi tiếp nhận thì sử dụng một cách tối hảo. Từ "tối hảo" này vẫn được sử dụng trước đây ở trong Nam, hàm nghĩa là đạt tối đa lợi ích với tối thiểu rủi ro hay phí tổn. Chuyện thứ hai là nếu kinh tế sa sút thì điều ấy có nghĩa là lương bổng bị sụt và đồng bạc mất giá, nhưng nếu tích cực khai thác điều bất lợi này như một ưu thế cạnh tranh về sau thì quốc gia lâm nạn phải trước tiên chấn chỉnh lại cơ chế tài chính và sản xuất và chuẩn bị đầu máy cho phục hồi là các doanh nghiệp. Nói chung là khi phải lùi thì đã nghĩ đến bước tiến và nếu bị sức ép thì nên chuẩn bị sức bật cho đúng hướng.

Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc phỏng vấn này.


________________

Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này

Thứ Ba, tháng 8 27, 2013

Thủy Triều Rút

Mai Vân & Nguyên-Xuân Nghĩa - Ngày 130827
Tạp Chí Kinh Tế RFI

Từ các nước Tân Hưng, tư bản chảy ngược về Âu-Mỹ   

Khối BRICS, còn được gọi là khối Tân Hưng hay các nước mới trỗi dậy gồm Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Phi - Flickr/ Brics 
* Khối BRICS, còn được gọi là khối Tân Hưng hay các nước mới trỗi dậy gồm Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Phi - Flickr/ Brics *
 
 

Chỉ năm năm sau vụ khủng hoảng rồi Tổng suy trầm xuất phát từ Hoa Kỳ và Âu Châu, hình như người ta đang chứng kiến một sự đảo lộn và nhiều biến động tài chánh trên thế giới. Tư bản trước đây dồn về các thị trường "đang lên", đặc biệt là về các nước khối BRICS, hiện lại đang chảy ngược về Mỹ và Châu Âu, nơi mà các nền kinh tế đang hồi phục.

Năm năm trước, hai khối công nghiệp hàng đầu là Âu Châu và Mỹ bị khủng hoảng tài chánh và trôi vào suy trầm kinh tế tương tự như Nhật trước đó. Khi ấy, hàng loạt biện pháp kích thích của Âu-Mỹ như hạ lãi suất, tăng chi và bơm tiền khiến đồng bạc mất giá, đi cùng hy vọng khả quan hơn tại các thị trường gọi là "đang lên" khiến dòng tư bản tài chánh "chảy về Đông", là từ khối Tây phương tiền chảy qua các nước đang phát triển. Trong số này có bốn nước gọi tắt là B.R.I.C - Brazil ở Nam Mỹ, Liên bang Nga, cùng Ấn Độ và Trung Quốc.

Thế rồi từ đầu năm nay, đà tăng trưởng của Brazil chỉ còn 2% một năm sau khi sụt tới 1% vào năm ngoái. Kinh tế Nga chỉ tăng 2% một năm dù có lợi thế là giá dầu thô đã vượt 100 đô la một thùng. Ấn Độ thì có tốc độ tăng trưởng cao là hơn 11% năm 2010 và gần 8% vào 2011 mà năm ngoái chỉ còn 4%, trong khi lại sợ lạm phát và tham nhũng. Còn Trung Quốc thì đã hết đà 10% của mấy chục năm và đang ngại một vụ hạ cánh nặng nề trước khi bước vào thập niên suy sụp. Mà không chỉ có mấy xứ đó, nói chung các nền kinh tế đang lên đã từng có mức tăng trưởng cao trong mấy năm qua đều bị suy giảm nặng, kể cả Mexico, Indonésia, Mã Lai hay Việt Nam, v.v....

Trong khi ấy, khối công nghiệp hóa Âu-Mỹ đã đụng đáy và bật dậy, dù chưa mạnh thì cũng hết bị khó khăn triền miên và riêng Nhật Bản thì từ đầu năm nay đã thi hành một kế hoạch cải cách khá táo bạo với nhiều dấu hiệu khả quan.

Khả quan nhất trong số này là Hoa Kỳ nên từ Tháng Năm Chủ tịch hệ thống ngân hàng trung ương thông báo là tới lúc điều chỉnh lại chính sách bơm tiền ào ạt với lưu lượng là mỗi tháng 85 tỷ đô la. Dự tính ấy khiến phân lời trái phiếu tại Mỹ bắt đầu tăng và dẫn tới hậu quả bất ngờ là dòng tư bản lại từ các nước đang phát triển chảy ngược về Mỹ và Âu Châu, là nơi có lời hơn, khiến hối suất đồng bạc các nước đang phát triển đều sụt. 


Trung Quốc không mấy hài lòng 


Chủ trương của Mỹ đã làm cho Bắc Kinh phiền lòng. Vào hôm nay, 27/08, hai lãnh đạo cao cấp ngành tài chánh Trung Quốc đã lên tiếng lưu ý Cục Dự trữ Liên bang Mỹ là nên xem xét kỹ lưỡng thời điểm và mức độ giảm mua lại tài sản của mình sao cho các nền kinh tế mới nổi khỏi bị thiệt hại. Thứ trưởng Tài chính Trung Quốc Chu Quang Diệu (Zhu Guangyao) và Phó Thống đốc Ngân hàng trung ương Trung Quốc Dịch Cương (Yi Gang) đã cảnh báo như trên vào lúc nhiều nền kinh tế mới nổi đang phải đối mặt với tình trạng vốn nước ngoài đang tháo chạy ồ ạt do ảnh hưởng của chính sách tiền tệ Mỹ. 

Phát biểu về hội nghị thượng đỉnh G20 vào hai ngày 04 và 05/09 sắp tới tại Nga, ông Chu Quang Diệu hoan nghênh các dấu hiệu cho thấy là nền kinh tế Mỹ đang hồi phục dần dần, nhưng cho rằng: «Hoa Kỳ - nước phát hành đồng tiền chính của thế giới - phải chú ý đến các tác động phụ của chính sách tiền tệ của mình…». 

Tuần này, Tạp chí Kinh tế RFI tìm hiểu hiện tượng đảo chiều phức tạp đó qua cuộc phỏng vấn chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa tại Hoa Kỳ. 

RFI: Xin chào anh Nghĩa. Thưa anh, hơn một năm trước, vào đầu Tháng Tư 2012, cũng trên diễn đàn này khi được phỏng vấn về dự án thành lập một Ngân hàng Phát triển Quốc tế của nhóm BRICS gồm có Brazil, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ và Nam Phi, anh có nêu ra sáu bảy lý do bất khả về cả kinh tế lẫn chính trị của dự án này. Nhân đó, anh còn nói nhóm kinh tế này lẫn các nền kinh tế gọi là "đang lên" thật ra không mạnh như cứ được ca tụng và sẽ có triệu chứng suy trầm. 

Quả nhiên là tình hình năm nay thiếu khả quan, với hậu quả đang làm chấn động các thị trường tài chính vì dòng tiền nóng đang triệt thoái khỏi các nền kinh tế đó và trở về khối kinh tế Âu-Mỹ. Tuần này, chúng ta sẽ tìm hiểu thêm về các nguyên nhân lẫn hậu quả, cụ thể là liệu sẽ có một vụ tư bản thiệt thoái và khủng hoảng như tại Châu Á vào năm 1997-1998 hay chăng? 

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thật ra tình hình còn quá sớm mà cũng lại khác thời trước để chúng ta đoán là các nền kinh tế đang lên có bị một vụ khủng hoảng như 16 năm trước hay không. Tôi xin bắt đầu bằng một cách nhìn đơn giản để hiểu ra sự vận hành phức tạp của quy luật kinh tế giữa các nước, trong đó có luồng vận chuyển của tư bản mà chúng ta đang quan tâm. 

- Thứ nhất, khi đa số quốc gia đều áp dụng quy luật thị trường và quyền tự do giao dịch để tạo ra của cải, thì luồng tư bản của các nước cố tìm ra nơi đầu tư có lợi nhất và tránh nơi ít lời hoặc lắm rủi ro. Luồng tư bản đó là tiền đầu tư của doanh nghiệp, của giới đầu tư tài chính nhận tiền tiết kiệm từ công chúng để đặt vào nơi sinh lời và an toàn. Khi đó, các nhà đầu tư này có thể trở thành chủ nợ nếu cho xứ khác vay tiền. Một con số đáng lưu ý là từ khi các nước đang phát triển bắt đầu chuyển hướng hơn 30 năm trước, họ tiếp nhận được một lượng tư bản rất lớn của các nước giàu, cụ thể là từ khoảng 25 tỷ đô la vào năm 1980 lên tới 1.200 tỷ vào năm ngoái. 

- Thứ hai, trong đầu tư, ta có loại trực tiếp là đem tiền vào xứ khác lập doanh nghiệp để sản xuất các mặt hàng có lời nhất. Loại đầu tư trực tiếp này phải mất nhiều năm thực hiện mới có kết quả nên không dễ tháo gỡ để triệt thoái. Một thí dụ ta cần sớm nhìn ra là khi Trung Quốc hết tăng trưởng như xưa và lại mất dần lợi thế nhân công rẻ thì xứ này hết là "công xưởng toàn cầu" như trong mấy chục năm qua. Khi đó, giới đầu tư trực tiếp cần tìm nơi khác, nhưng sự xoay chuyển ấy sẽ chậm rãi chứ không đột ngột như loại đầu tư gián tiếp, là loại đang làm chúng ta quan tâm. 

RFI: Anh dẫn từng bước là để nói đến loại đầu tư đang gây quan ngại trên các thị trường. Thưa anh loại hình đầu tư gián tiếp đó gồm có những gì ? 

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Loại gián tiếp có thể gọi là đầu tư tài chính và chủ yếu nhắm vào ba thứ khí cụ tài chánh, là cổ phiếu, trái phiếu và ngoại tệ. 

- Đầu tư vào cổ phiếu có thể đem lại mức lời cao nhờ cổ tức hay tiền lời kinh doanh và nhờ sai biệt giữa giá bán ra cao hơn giá mua vào, mà lại bị rủi ro cao. Đầu tư vào trái phiếu là đem tiền cho vay từ ngắn đến dài hạn, với lợi tức gọi là cố định vì là phân lời, "rendement" hoặc "yield", được trả cho trái chủ, là chủ nợ. Quy tắc nên nhớ là trị giá trái phiếu hay giấy nợ xoay ngược với phân lời: khi nghe nói giá trái phiếu tăng thì cũng có nghĩa là phân lời giảm, và trái lại. 

- Khí cụ thứ ba là ngoại tệ, sở trưởng khai thác của các ngân hàng lớn, với trị giá tương đương hơn ngàn tỷ đô la được trao đổi một ngày 24 tiếng trên toàn cầu. Loại hình đầu tư này là mua vào một ngoại tệ và thanh toán bằng một ngoại tệ khác nên nó liên hệ đến đồng bạc của hai nước. Loại đầu tư này có độ thanh khoản cao, tức là có thể đổi ra tiền mặt rất nhanh, nên gây biến động lớn, là trường hợp xảy ra hiện nay với một số quốc gia. 

- Yếu tố đáng chú ý kia của việc đầu tư vào ngoại tệ là người ta có thể vay tiền ở xứ có lãi suất rẻ để mua ngoại tệ cho vay ở xứ có lãi suất cao hơn và kiếm lời nhờ sự sai biệt này. Thuật ngữ kinh tế gọi đó là "carry trade", mà ta có thể tạm dịch là "giao dịch lợi sai". Bây giờ, mình trở lại nội dung đích thực của vấn đề, là khác biệt về triển vọng sinh lời ở từng nơi. 

RFI: Sau khi anh trình bày quy tắc căn bản như vậy, chúng ta trở lại thực tế của các thị trường. Đó là Hoa Kỳ đã tạm hồi phục và sẽ đảo ngược hoặc ít ra tiết giảm dần biện pháp bơm tiền nên phân lời trái phiếu trên thị trường Mỹ đã tăng vọt khi ngân hàng trung ương Mỹ thông báo việc sẽ chuyển hướng, nhất là qua biên bản của kỳ họp lần trước của họ vừa được công bố hôm 21. Trong khi ấy, tình hình kinh tế của nhiều quốc gia đang phát triển lại có triệu chứng suy giảm và triển vọng sinh lời của giới đầu tư hết còn sáng sủa như trước nên họ mới rời bỏ các thị trường này và đưa tiền qua Mỹ, hoặc về Mỹ. Đấy có phải là một lý do chính hay chăng? 

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa đúng như vậy, nhưng chúng ta đi dần vào chuyện rắc rối hơn. 

- Cả ba loại khí cụ đầu tư nói trên, là cổ phiếu, trái phiếu và ngoại tệ, thật ra đều có liên hệ với nhau vì tùy vào tình hình kinh tế, kỳ vọng kiếm lời và kết tinh vào mức lãi suất. Bây giờ, mỗi xứ lại bị chấn động nặng nhẹ khác nhau vì hoàn cảnh kinh tế tài chánh của từng nước. Thí dụ như năm năm trước, các nước Á Châu đều đầy ứ tư bản tài chánh khi Mỹ-Âu ào ạt bơm tiền và hạ lãi suất, nhờ vậy cổ phiếu và các ngoại tệ Châu Á đều lên giá. Bây giờ thì như thủy triều rút ngược vì cổ phiếu nói chung mất giá kể từ Tháng Năm. Một số nước còn bị trầm trọng hơn về ngoại hối nếu đã bị nhập siêu và khiếm hụt cán cân vãng lai, như Ấn Độ, Indonésie, và Thổ Nhĩ Kỳ. 

- Khi đồng bạc mất giá so với ngoại tệ khác mà mình lại thiếu ngoại tệ vì bị nhập siêu và hụt cân chi phó thì càng khó bán ngoại tệ để vực giá đồng bạc. Khi kinh tế sa sút, như trường hợp Brazil hay Ấn Độ, thì chẳng xứ nào dám nâng lãi suất để giữ khách vì lãi suất cao lại cản trở sản xuất. Hoặc nếu bị lạm phát cao, cũng là trường hợp của Brazil và Ấn Độ, thì chẳng ai dám phá giá đồng bạc để kích thích kinh tế hay đẩy mạnh xuất cảng. Nghĩa là xứ nào mà có nhược điểm riêng như con bệnh đang yếu sẵn thì cơn chấn động này có thể là dịch bệnh nguy ngập. 

- Mà hoàn cảnh Á Châu nay cũng khác, do sự thoái trào của Trung Quốc và suy trầm của nhiều xứ Châu Á khiến nguyên nhiên vật liệu có thể mất giá và các nước bán nguyên liệu bị tai họa hối đoái, như Mã Lai Á, Thái Lan và Việt Nam. Vì thế, cơn chấn động lần này có khi lây qua xứ khác chứ không chỉ là vấn đề của các nước đã nhận quá nhiều tư bản nóng để đắp vào thiếu hụt kinh niên của họ nay bị suy sụp nặng khi luồng tư bản đó lại từ Đông mà chảy về Tây. 

RFI: Khi anh trình bày qua từng bước từ đơn giản đến phức tạp mà lại nói rằng cơn chấn động hiện nay có thể lây lan qua xứ khác thì liệu chúng ta có thấy tái diễn một vụ khủng hoảng Châu Á năm 1997 và dội qua nước Nga rồi chuyển ngược vào Hoa Kỳ năm 1998 hay không? 

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Vì mỗi thời mỗi khác nên tôi xin đơn cử vài thí dụ để chúng ta suy đoán thêm. 

- Như năm 1991, Nhật bị suy trầm và hạ lãi suất tới sàn khiến tư bản chạy ra ngoài kiếm lời theo kiểu "carry trade". Rồi cơn động đất Kobe năm 1995 khiến tư bản Nhật giải kết ở ngoài để rút tiền về tái thiết, nhưng lần đó, cơn chấn động không kéo dài. Năm 1997 thì tình hình nguy kịch hơn cho Đông Á vì sự lạc quan hồ hởi của các nước tân hưng, rồi sau cơn khủng hoảng, các nước bị nạn đều rút kinh nghiệm và cải cách, nhất là Nam Hàn, nên có nền móng tương đối khá hơn. Chi tiết đáng lo cho thời nay là dầu thô hiện đã quá trăm đồng một thùng chứ không chỉ ở quãng vài chục đô la như trong vụ khủng hoảng 97-98 nên hậu quả nhập siêu quả là rất đáng ngại. 

- Thí dụ thứ ba là năm 2007, khi vụ khủng hoảng tín dụng gia cư loại thứ cấp tại Mỹ bắt đầu, lãi suất Mỹ giảm mạnh làm Nhật bị chấn động vì dồn tiền từ nơi chỉ có lãi suất là 0,50% vào Hoa Kỳ để hưởng lãi suất hơn 5%. Khi Mỹ đảo ngược chính sách tiền tệ và hạ lãi suất, nghiệp vụ carry trade của Nhật bị thiệt hại lớn và đồng Yen lên giá sau đó càng gây thêm khó khăn cho kinh tế Nhật cho tới năm ngoái. Sau cùng, cũng mới năm ngoái thôi, người ta cứ than là khối Âu-Mỹ cố hạ giá đồng bạc và gây ra cuộc chiến về ngoại tệ để chiếm lợi thế xuất cảng, bây giờ thì thiên hạ lại sợ tiền Mỹ lên giá làm các nền kinh tế đang lên sẽ lại sụp vì những khó khăn của họ!

RFI: Hình như là các thí dụ vừa rồi của anh cho thấy hai ba điều. Thứ nhất là luồng tư bản có thể chảy ngược, thứ hai, khi điều ấy xảy ra, nền kinh tế nào mà có vấn đề ở bên trong thì sẽ bị hiệu ứng nặng nhất, và nếu nhiều nền kinh tế lại bị cùng một lúc thì chúng ta dễ bị một vụ khủng hoảng lan rộng. Mấy kinh nghiệm đó có giúp ích gì cho các nước bị nạn lần này không? 

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ chuyện đảo điên hay tái lập lại thất quân bình là hiện tượng thường trực và tất nhiên của kinh tế. Khi tư bản chảy khỏi các nền kinh tế có đà tăng trưởng thấp tại Hoa Kỳ và Âu Châu thì cũng tạo cơ hội cho các nền kinh tế đang lên trong mấy năm liền. Nếu họ không nhân cơ hội để vừa phát triển vừa cải tiến cơ chế mà cứ tưởng sẽ mãi mãi có tiền từ xứ khác vào thì dễ bị khủng hoảng. Bây giờ, với nạn suy trầm, lương bổng và hối suất sút giảm, nước nào có thể nhân chuyện này mà chấn chỉnh lại cơ cấu và nâng sức cạnh tranh thì dễ ra khỏi khó khăn với nền móng lành mạnh hơn. Ăn thua là lãnh đạo đừng gây thêm hốt hoảng và tránh nổi động loạn bên trong. Có lẽ các nước đang phát triển mà có dân chủ thì dễ thoát hiểm nhất. 

RFI: Xin cám ơn chuyên gia Nguyễn-Xuân Nghĩa đã trả lời từ Hoa Kỳ.

Giấc Mơ Đen Trắng


Nguyễn-Xuân Nghĩa - Người Việt ngày 130826

"Hoa Kỳ Nhìn Từ Bên Ngoài"

Những lý do và tai họa của 'căn cước từ màu da'....

* Từ giấc mơ đến thực tại *



Kỷ niệm 50 năm cuộc diễn hành phát huy dân quyền, do Mục sư Martin Luther King Jr. cùng nhiều nhân vật khác khởi xướng ngày 28 Tháng Tám năm 1963, dư luận Hoa Kỳ chú ý tới sự tiến bộ lẫn tụt hậu của người Mỹ da đen về mặt dân quyền. Tình trạng "tranh tối tranh sáng" của họ quả là đáng ngại. 

Nhưng tháng trước đây, khi Tổng thống Barack Obama nhảy vào cuộc nhân vụ xử án – và tha bổng – George Zimmerman về tội bắn chết một thiếu niên da đen, người ta e là ông không giải quyết mà còn gây khó cho một vấn đề xã hội vốn dĩ nan giải....

Chúng ta hãy thử nhìn vào vấn đề này từ giác độ khác, cũng theo kiểu "nhìn từ bên ngoài".


***

Trên thế giới, ngoại trừ trên một hoang đảo hẻo lánh, hầu như không quốc gia nào lại "thuần chủng", chỉ gồm các công dân từ một chủng tộc duy nhất. Quốc gia hay cộng đồng nào cũng hình thành từ sự pha trộn chủng tộc của nhiều thế kỷ và thế hệ.

Hoa Kỳ là quốc gia thành hình từ di dân với nhiều pha trộn sắc tộc và màu da, nhưng duy nhất ngày nay lại có thành phần lãnh tụ chỉ tranh đấu cho dân da đen, hay người Mỹ gốc Phi Châu. Hãy tưởng tượng đến phản ứng của mọi người khi xuất hiện các câu lạc bộ hay hiệp hội chỉ dành cho hội viên Do Thái, Ái Nhĩ Lan, hoặc nhân vật chỉ tranh đấu cho quyền lợi người Ý, người Nga.... Họ có thể bị kết án là "kỳ thị" và cản trở tinh thần hội nhập của "Hiệp chủng quốc".

Sở dĩ như vậy là vì người Mỹ da đen vẫn là nạn nhân của nhiều vấn đề, trong đó có cả loại vấn đề do chính họ tự gây ra. Phân giải cho rõ hiện tượng "nạn nhân" và từ đó, nói đến "thủ phạm", là chuyện nhạy cảm.

Từ phong trào đấu tranh cho dân quyền của người da đen, thành phần sắc tộc này có nhiều tiến bộ hơn về kinh tế": hơn phân nửa có mức sống cao hơn "mức bần cùng", poverty line, và bước vào thành phần trung lưu. Định mức nghèo khốn này có thay đổi, gần đây nhất (2010) là một người dưới 65 tuổi có lợi tức cả năm là 11 ngàn 344 đô la, hoặc một hộ gia đình bốn người kiếm được khoảng 22 ngàn đô la một năm. Dưới mức tối thiểu ấy là được coi là nghèo. Ở đây, ta không so sánh "cái nghèo" của một dân Mỹ với sự cùng khốn của các dân tộc khác để kết luận rằng một người Mỹ nghèo vẫn còn sướng hơn mấy tỷ người khác trên địa cầu!

Nhưng bên cạnh sự tiến bộ ấy là những thống kê u ám khác....

***

Nửa thế kỷ sau cuộc đấu tranh cho dân quyền của người da đen, cuộc khảo sát mới nhất của hệ thống Rasmussen cho biết như sau về tâm tư người Mỹ:

Có 31% dân da đen tin rằng đa số người da đen có tinh thần kỳ thị chủng tộc. So với 29% nguời da trắng tin là đa số dân da trắng là kỳ thị thì sự khác biệt quả là không nhiều. Kỳ thị là chuyện có thật. Nhưng nếu chính người da đen lại xác nhận như vậy trong cộng đồng của họ thì đấy là điều đáng giật mình! Cũng thế, ngày nay chỉ có 29% dân Mỹ nói chung nghĩ rằng quan hệ về sắc tộc trong xã hội đã có cải tiến, và 32% lại cho là tình hình còn tồi tệ hơn trước.

Chẳng hạn như một phần ba trẻ em (người Mỹ) da đen lại sinh ra từ một bà mẹ độc thân, và gần 60% của số trẻ này đang sống trong cảnh bần cùng. Hoặc gần một phần ba đàn ông da đen đã và sẽ vào tù. Mà dù có được vào trung học thì 40% nam giới đã có lúc thất nghiệp ở tuổi sung mãn, từ 25 đến 34.... Quả thật họ là thành phần nạn nhân rất đáng ái ngại.

Đáng ngại nhất, sau khi ông Martin Luther King đã tranh đấu và mất mạng để xây dựng một xã hội không còn nạn kỳ thị màu da, nhiều vụ án hình sự, từ O.J.Simpson tới George Zimmerman, bị xoay thành chuyện màu da. Khỏi cần biết là ai có tội hay vô tội, người ta dùng màu da làm tiêu chuẩn phân định. Và còn biểu tình phản đối phán quyết của toà án.

Quả thật là đã có tinh thần kỳ thị hai chiều, trên lằn ranh trắng đen, của màu da. Vì sao lại như vậy?

Hai kinh tế gia từng đoạt giải Nobel, là Gary Becker và Kenneth Arrow, đã tìm hiểu và giải thích nạn kỳ thị này từ phản ứng nghi kỵ tiên thiên trong các doanh nghiệp. Nhiều cuộc khảo sát và trắc nghiệm có xác nhận chuyện ấy. Thí dụ như khi đi xin việc, lập hồ sơ tín dụng, hoặc khảo giá xe hơi, người nộp đơn với cái tên đặc thù da đen thường bị thiệt thòi hơn.

Nhưng kinh tế không là tất cả.

Nhiều người Mỹ da đen đã có những chọn lựa hay thái độ sống mà giới trung lưu cả da trắng và da đen đều cho là tai hại. Như việc phụ nữ có con ngoài hôn nhân; hoặc nhiều kẻ tội phạm lấy rủi ro quá lớn (và bị tù) mà chẳng có lợi gì; trong khi các thiểu số da màu khác, như người Latino, chưa nói đến dân gốc Á, lại dễ kiếm việc hơn dù đã bị rào cản về ngôn ngữ.

Trong phạm vi đó, chính sách "khẳng định tích cực", affirmative action, nhằm tích cực nâng đỡ thiểu số da đen, chưa hẳn là có lợi cho người da đen mà còn duy trì tinh thần ỷ lại, hoặc ăn vạ, và gây thêm vấn đề cho cộng đồng này.

Một chi tiết còn đáng chú ý hơn: khi được khảo sát về học lực và hạnh kiểm, nhiều em nhỏ da đen cố tình chứng tỏ rằng mình hư và dốt hơn thực tế, để được giống như chúng bạn. Với một số người da đen, thành tựu về học vấn, nghề nghiệp hoặc lợi tức, có thể phản ảnh tinh thần "theo bọn da trắng" - hoặc phản bội cộng đồng.

Họ bị cột vào cái căn cước da đen và có những động thái bất lợi để bảo vệ "bản sắc riêng"....

Một số lãnh tụ da đen nổi tiếng như các mục sư Jessie Jackson, Al Sharpton hay Louis Farrakhan, còn khai thác tinh thần kỳ thị ngược của dân da đen để bảo vệ vai trò của họ mà vây hãm "đồng bào" trong cái vòng luẩn quẩn khó gỡ. Như nhiều nhà cách mạng đi trước, các lãnh tụ này hướng cuộc cách mạng qua ngả khác và vận dụng phản ứng "là nạn nhân" của quần chúng để duy trì vai trò lãnh đạo của họ, trên lưng các nạn nhân. Những ai kêu gọi hội nhập, như của diễn viên Bill Cosby, hoặc tinh thần trách nhiệm và tự cường, như giáo sư kinh tế kiêm bình luận gia Thomas Sowell, đều bị đả kích là bội phản di sản da đen hoặc là nô lệ cho da trắng.

Đáng lẽ việc Tổng thống Obama thắng cử phải là biến cố giải thoát và tháo gỡ mâu thuẫn trầm trọng này cho nước Mỹ. Nhưng có thể vì động lực chính trị, ông cũng không vượt qua  phản ứng tâm lý tai hại của nhiều người da đen và đi ngược nỗ lực hội nhập của nước Mỹ. 

Đáng tiếc!


_____________________


Chỉ có tại nước Mỹ

Khi có tin biện lý New York là Eric Schneiderman vừa đòi truy tố tỷ phú Donald Trump về việc lập ra một đại học vô giá trị chỉ vì quyền lợi riêng, ta nên đọc một cái tin cùng ngày Thứ Bảy 24. Nhiều trường tư thục tại Los Angeles đã thuê loại nhiếp ảnh viên điệu nghệ vì chụp hình các tài tử hay ca sĩ nổi tiếng như Kim Kardashian hay Avril Lavigne, để quảng cáo cho trường. Kỹ thuật quảng cáo là chụp hình học sinh và trình bày như đại tài tử trong cuốn kỷ yếu hàng năm của nhà trường! Nhiều bậc phụ huynh đã lật đật ghi danh cho con vào các ngôi trường khét tiếng này.